Ngày 19/3/2021, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 21/2021/NĐ-CP quy định thi hành Bộ Luật dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bao gồm tài sản bảo đảm, xác lập, thực hiện biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và xử lý tài sản bảo đảm để sửa đổi, bổ sung các quy định phù hợp với Bộ Luật dân sự năm 2015, có hiệu lực từ ngày 15/5/2021, thay thế Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngỳ 22/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
So với các quy định trước đây, Nghị định 21/2021/NĐ-CP có một số điểm mới đáng chú ý như sau:
Thứ nhất, Nghị định 21/2021/NĐ-CP đã có những giải thích đối với một số khái niệm mà trong Nghị định trước chưa được làm rõ như “Tài sản gắn liền với đất”, “Hợp đồng bảo đảm”, “Giấy chứng nhận”, hay “Thời hạn hợp lý” là những khái niệm do không được giải thích cụ thể trong Nghị định cũ nên đã có sự dung túng hoặc không rõ ràng trong thực tế áp dụng.
Thứ hai, tài sản dùng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, nếu như trước đó những tài sản được dùng để thực hiện nghĩa vụ chưa được đề cập cụ thể trong Nghị định cũ và các Thông tư, Thông tư liên tịch, thì nay đã được quy định rõ trong Nghị định 21/2021/NĐ-CP, chẳng hạn như: Quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; Tài sản được tạo lập từ quyền bề mặt, quyền hưởng dụng; Giấy tờ có giá, chứng khoán, số dư tiền gửi; Quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng; Dự án đầu tư, tài sản thuộc dự án đầu tư; hay đối với trường hợp đầu tư vào tài sản thế chấp làm cho giá trị của tài sản thế chấp tăng lên thì phần giá trị đầu tư tăng thêm thuộc tài sản thế chấp;… Đây là những điểm hoàn toàn mới so với Nghị định cũ, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng hơn cho các chủ thể, đặc biệt là các doanh nghiệp và ngân hàng có thể sử dụng các tài sản này làm tài sản bảo đảm cho việc huy động vốn và cấp tín dụng.
Thứ ba, liên quan đến quy định về việc xác lập, thực hiện hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm bằng tài sản chung của vợ chồng, đây là một điểm mới được đưa vào Nghị định 21/2021/NĐ-CP, theo đó, trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên dùng tài sản chung để góp vốn vào một tổ chức kinh tế thì bên đó được tự mình xác lập, thực hiện hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm liên quan đến tài sản chung, hoặc mặc dù trên thực tế hai vợ chồng không có sự thỏa thuận về việc dùng tài sản chung vào việc góp vốn nhưng có sự việc một bên vợ hoặc chồng dùng tài sản chung để góp vốn và xác lập, thực hiện hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm liên quan đến tài sản chung mà người còn lại biết được nhưng không phản đối thì vẫn được coi như là đã có thỏa thuận của hai vợ chồng. Trong trường hợp này, nếu xảy ra sự kiện ly hôn giữa hai vợ chồng thì người đã xác lập hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm vẫn được tiếp tục thực hiện hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm, trừ trường hợp có phán quyết khác của cơ quan tài phán.
Thứ tư, về quyền truy đòi tài sản bảo đảm làn nội dung mới trong Nghị định 21/2021/NĐ-CP. Theo đó, Quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm trong biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba không thay đổi hoặc không chấm dứt trong trường hợp tài sản bảo đảm bị chuyển giao cho người khác do mua bán, tặng cho, trao đổi, chuyển nhượng, chuyển giao khác về quyền sở hữu; chiếm hữu, sử dụng hoặc được lợi về tài sản bảo đảm không có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, Quyền truy đòi của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm không áp dụng đối với tài sản sau đây: (1) Tài sản bảo đảm đã được bán, được chuyển nhượng hoặc đã được chuyển giao khác về quyền sở hữu do có sự đồng ý của bên nhận bảo đảm và không được tiếp tục dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận; (2) Tài sản thế chấp được bán, được thay thế hoặc được trao đổi theo quy định tại khoản 4 Điều 321 của Bộ luật Dân sự; (3) Tài sản bảo đảm không còn hoặc bị thay thế bằng tài sản khác quy định tại Điều 21 Nghị định; (4) Trường hợp khác theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan. Ngoài ra, trường hợp bên bảo đảm là cá nhân chết, pháp nhân chấm dứt tồn tại thì quyền truy đòi tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm không chấm dứt nhưng thực hiện theo quy định tại Điều 658 của Bộ luật Dân sự và quy định khác về thừa kế của Bộ luật Dân sự trong trường hợp bên bảo đảm là cá nhân chết hoặc thực hiện theo quy định của pháp luật về giải thể pháp nhân, phá sản trong trường hợp bên bảo đảm là pháp nhân bị giải thể, bị tuyên bố phá sản.
Thứ năm, về chế định xử lý tài sản bảo đảm, khác với Nghị định cũ, Nghị định 21/2021/NĐ-CP đã sử dụng cụm từ “Xử lý tài sản bảo đảm” thay vì “Xử lý tài sản bảo đảm trong cầm cố, thế chấp” để thấy rằng những quy định trong chế định này được áp dụng cho tất cả các biện pháp bảo đảm mà không chỉ quy định cho riêng biện pháp bảo đảm bằng cầm cố và thế chấp như Nghị định trước.
Ngoài ra, Nghị định 21/2021/NĐ-CP quy định cụ thể về các phương thức xử lý một số tài sản bảo đảm như: Giải quyết trường hợp bên bảo đảm hoặc người có nghĩa vụ được bảo đảm là cá nhân chết hoặc bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết; Xử lý tài sản bảo đảm là vật đồng bộ; tài sản có tài sản gắn liền; quyền đòi nợ, khoản phải thu, quyền yêu cầu thanh toán khác; giấy tờ có giá, chứng khoán, số dư tiền gửi; vận đơn, chứng từ vận chuyển; Xử lý tài sản bảo đảm là tài sản hình thành trong tương lai; Xử lý tài sản thế chấp được đầu tư…/.